Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển nguồn lực con người của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Hành vi xâm hại trẻ em dù thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, bị bóc lột và cần được chăm sóc trong xã hội, vì vậy có các quy định mang tính răn đe cao hơn để bảo vệ trẻ em khỏi các hành vi làm ảnh hưởng, xâm hại, xâm phạm về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm. Đồng thời, tuyên truyền các quy định này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của trẻ em. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày ba nội dung cơ bản: (1) Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em trước những hành vi xâm hại và, (2) Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em trước những hanh vi xâm hại, (3) Một số giải pháp phòng ngừa tình trạng trẻ em bị xâm hại.
1. Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em trước những hành vi xâm hại
Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì “trẻ em là những người dưới 18 tuổi”. Trẻ em cũng là một con người, là công dân của một quốc gia nên có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, nhưng “còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý, trước cũng như sau khi ra đời”. Pháp luật quốc tế hiện nay có khoảng hơn 80 văn kiện quốc tế (Công ước, tuyên ngôn, chương trình…) trực tiếp hoặc gián tiếp quy định hoặc có liên quan đến việc bảo vệ quyền trẻ em. Trong đó, có thể khái quát một số văn kiện quan trọng sau đây:
- Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924. Đây là Văn kiện quốc tế đầu tiên về quyền trẻ em. Năm 1924, Hội quốc liên đã chấp thuận thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em do Hiệp hội quốc tế về quỹ cứu trợ trẻ em soạn thảo trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Tuyên ngôn xác định: Loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất và đề ra 5 điểm về các quyền của trẻ em: (1) Trẻ em phải được tạo điều kiện để phát triển bình thường về thể chất và tinh thần; (2) Trẻ em đói phải được ăn; ốm đau phải được chữa bệnh; chậm phát triển phải được nâng đỡ; trẻ em hư phải được dìu dắt; mồ côi và không người thừa nhận, phải được thu nhận, cưu mang; (3) Trẻ em phải được ưu tiên cứu giúp khi xảy ra hoạn nạn; (4) Trẻ em phải được tạo khả năng để có công ăn việc làm và phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột; (5) Trẻ em phải được nuôi dạy với tinh thần được phát huy những năng lực tốt nhất nhằm phục vụ loài người.
- Tuyên ngôn về quyền trẻ em được Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1959. Tuyên ngôn này đã đưa ra những nguyên tắc tiến bộ hơn với phương châm loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có; các quyền trẻ em được mở rộng hơn, cụ thể trẻ em có quyền: (1) Được thương yêu, hiểu biết; (2) Được nuôi nấng, chữa bệnh thích đáng; (3) Học tập không mất tiền; (4) Vui chơi, giải trí; (5) Có họ tên, có quốc tịch; (6) Chăm sóc đặc biệt nếu có những nhược điểm về thể chất, tinh thần; (7) Ưu tiên cứu giúp khi xảy ra hoạn nạn; (8) Đào tạo để trở thành người có ích cho xã hội; (9) Được phát triển năng khiếu; (10) Nuôi dạy trong tinh thần hoà bình và hữu nghị quốc tế. Trẻ em được hưởng các quyền trên đây không phân biệt màu da, giới tính, tín ngưỡng, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội.
Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 mang tính chất khuyến nghị nên chỉ có giá trị về mặt chính trị và đạo đức, không có giá trị pháp lý bắt buộc.
- Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (Liên hợp quốc thông qua 20/11/1989, có hiệu lực từ 2/9/1990). Năm 1978, Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết soạn thảo Công ước về quyền trẻ em trên cơ sở Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 và hai Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội và dân sự, chính trị. Năm 1979, Tổ công tác của Liên hợp quốc gồm đại diện 43 nước thành viên Uỷ ban về quyền con người, một số tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc như Quỹ nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Cao uỷ tị nạn LHQ (UNHCR) và 50 tổ chức phi chính phủ... tham gia trực tiếp soạn thảo Công ước.
Sau 10 năm soạn thảo với nhiều lần chỉnh lý, có sự đóng góp ý kiến của các nước và các tổ chức quốc tế, Dự thảo Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được Uỷ ban về quyền con người, Hội đồng kinh tế – xã hội của Liên hợp quốc phê duyệt. Ngày 20/11/1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã chính thức thông qua Công ước, đến ngày 26/01/1990 mở cho các nước ký nhân kỷ niệm lần thứ 30 Tuyên ngôn về quyền trẻ em (1959 – 1989) và 10 năm Quốc tế thiếu nhi (1979 – 1989). Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước. Hiện nay, Công ước có 191 quốc gia thành viên. Công ước về quyền trẻ em năm 1989 là Công ước đầu tiên đề cập toàn diện quyền của trẻ em theo hướng tiến bộ, thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền được sống, được phát triển, được tham gia và được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt. Công ước là văn bản có tính chất ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em trên toàn thế giới.
Điều 34 Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống tất cả các hình thức bóc lột tình dục và lạm dụng tình dục. Vì mục đích này, các quốc gia thành viên phải đặc biệt thực hiện các biện pháp thích hợp ở cấp quốc gia, song phương và đa phương để ngăn ngừa: a) Việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động tình dục trái pháp luật nào; b) Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong mại dâm hay các hoạt động tình dục trái pháp luật khác; c) Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong các cuộc biểu diễn hay tài liệu khiêu dâm”.
Ngoài ra, còn có một số Công ước, văn kiện quốc tế khác đề cập đến từng lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em như:
- Công ước về trấn áp buôn bán người và bóc lột mại dâm (Liên hợp quốc thông qua 21/3/1950 và có hiệu lực từ 25/7/1951).
- Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29/11/1985 (sau đây gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh).
- Công ước La hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các nước về con nuôi nước ngoài có hiệu lực từ 01/5/1995.
- Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (Liên hợp quốc thông qua 25/5/2000. Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001).
- Công ước 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Tổ chức lao động quốc tế ILO thông qua 17/6/1999).
- Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Liên hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000. Việt nam đã ký Công ước này ngày 13/12/2000) và Nghị định thư bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Liên hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000).
- Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử đối với phụ nữ (Liên hợp quốc thông qua ngày 18/2/1979, có hiệu lực từ 3/9/1981).
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em trước những hanh vi xâm hại
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em vào năm 1990 và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về Quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em vào năm 2001. Điều đó thể hiện sự nhất quán trong việc thực thi pháp luật quốc gia và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của các loại tội phạm tình dục ở Việt Nam.
Văn bản pháp lý quan trọng cụ thể hoá quy định về quyền trẻ em, các biện pháp bảo vệ quyền trẻ em là Luật Trẻ em năm 2016. Theo khoản 1 Điều 4 Luật Trẻ em quy định “Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác”, đồng thời khoản 5 Điều 4 Luật này cũng nên rõ: “Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt”.
Pháp luật Việt Nam cũng đã quy định cụ thể nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trước nguy cơ xâm hại của các loại tội phạm tình dục như: coi hành vi dụ dỗ, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm, xâm hại tình dục trẻ em; lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua, bán, sử dụng văn hoá phẩm đồi truỵ, làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, tàng trữ văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, sản xuất, kinh doanh đồ chơi, trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em là những hành vi bị nghiêm cấm. Đồng thời, cũng quy định rõ trách nhiệm của gia đình, của Nhà nước và toàn xã hội trong việc ngăn chặn tội phạm xâm hại tình dục trẻ em và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ trẻ em là nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục.
Cùng với việc phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về Quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, pháp luật Việt Nam đã quy định các hành vi sau đây là tội phạm theo Bộ luật Hình sự (BLHS) cũ năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung): Hành vi hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Hành vi cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), Hành vi giao cấu với trẻ em (Điều 115), Hành vi dâm ô đối với trẻ em (Điều 116), Hành vi mua dâm người chưa thành niên (Điều 256). Theo Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì các hành vi được quy định là: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Cưỡng dâm người dưới 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) và Mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329). Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em được quy định ở các điều luật nêu trên đều có khách thể trực tiếp là danh dự, nhân phẩm, sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của trẻ em mà đối tượng là những người dưới 16 tuổi (đối với các hành vi hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với trẻ em) và dưới 18 tuổi (đối với hành vi mua dâm người chưa thành niên).
Tháng 9/2019, Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao thông qua Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định về các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết đã tạo nên cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn để bảo vệ một cách công bằng cả trẻ em gái và trẻ em trai dưới 18 tuổi khỏi xâm hại tình dục, tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn và quy định nhiều biện pháp để quá trình xét xử thân thiện hơn, nhạy cảm hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đặc biệt của người chưa thành niên, theo tinh thần của Công ước và các điển hình tốt trên thế giới.
3. Một số giải pháp phòng ngừa tình trạng trẻ em bị xâm hại
Thứ nhất, triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014… và các văn bản hướng dẫn thực hiện; ưu tiên bố trí nguồn lực để bảo đảm việc hỗ trợ, can thiệp cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại… Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ em cho cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ, người trực tiếp làm việc với trẻ em và kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại cho trẻ em. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền trẻ em tại các cơ sở giáo dục, các cộng đồng dân cư. Các địa phương chỉ đạo xây dựng kế hoạch tuyên truyền trực tiếp tại cộng đồng về phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi, chú trọng các nhóm sau: địa bàn trọng điểm, phức tạp về tệ nạn xã hội, địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số; nhóm trẻ em khuyết tật, trẻ em tại các cơ sở bảo trợ xã hội, trường dân tộc nội trú; trẻ em mồ côi do đại dịch Covid-19 hiện sống cùng người thân; người dưới 18 tuổi sau khi chấp hành án phạt tù có thời hạn. Công tác tuyên truyền phải hướng sự quan tâm của dư luận xã hội, người dân tham gia phòng ngừa, phát hiện đấu tranh ngăn chặn tội phạm xâm hại trẻ em, kỹ năng ứng phó giúp người dân nâng cao cảnh giác với thủ đoạn của tội phạm, biện pháp bảo vệ trẻ em tại cộng đồng.
Thứ hai, phối hợp với mạng lưới xã hội về bảo vệ trẻ em và các tổ chức đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội chữ thập đỏ, Hội Bảo vệ quyền trẻ em tỉnh... thực hiện công tác truyên truyền kỹ năng giúp trẻ em nhận diện, tự bảo vệ trước hành vi xâm hại, gắn công tác tuyên truyền phòng, chống xâm hại trẻ em, bạo lực gia đình với các đợt sinh hoạt chính trị hoặc các phong trào thi đua của trường học, đoàn thanh niên, phụ nữ, hội sinh viên, Hội liên hiệp thanh niên, Đội thiếu niên tiền phong ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác này. Phối hợp với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức cuộc thi của đoàn thanh niên tìm hiểu pháp luật về bảo vệ trẻ em và phòng, chống xâm hại trẻ em trên môi trường mạng xã hội.
Thứ ba, lồng ghép công tác phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình, tội phạm mua bán người với các mô hình xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa phương nhằm huy động cấp ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể giáo dục, cảm hóa người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng như Bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan doanh nghiệp, trường học, lực lượng xung kích trong đảm bảo an ninh trật tự tại địa bàn để bảo vệ phụ nữ, trẻ em, nhất là các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tăng thời lượng tin, bài trên báo chí ở Trung ương và địa phương, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở về chủ trương, chính sách pháp luật bảo vệ trẻ em; kết quả các chương trình công tác của Sở, ban, ngành và công tác giám sát thực hiện pháp luật phòng, chống xâm hại trẻ em.
Thứ tư, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em, phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm bạo lực, xâm hại/xâm hại tình dục trẻ em. Trước hết là các quy định về giám định pháp y trong pháp luật về giám định tư pháp để bảo đảm các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em được điều tra nhanh chóng, thu thập kịp thời, đầy đủ bằng chứng; tăng quyền yêu cầu giám định cho cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em; có sự phối hợp giữa công tác xã hội hỗ trợ nạn nhân với thu thập, cung cấp chứng cứ xâm hại trẻ em cho quá trình tư pháp. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình sự để bảo đảm việc điều tra, xét xử vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em không có nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em là nạn nhân. Sửa đổi, bổ sung pháp luật xử lý vi phạm hành chính để tăng mức xử phạt hành chính hành vi bạo lực đối với trẻ em. Quy định chế tài xử lý việc phản ánh vụ việc bạo lực, xâm hại, xâm hại tình dục trẻ em trên các phương tiện thông tin đại chúng vi phạm quyền bí mật đời sống riêng tư của trẻ em.
- Thứ năm, lực lượng Công an cần chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan mở các đợt cao điểm tấn công tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội; tham mưu xây dựng các kế hoạch chuyên đề đấu tranh ngăn chặn tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi; nâng cao hiệu quả điều tra khám phá các vụ án xâm hại trẻ em, các vụ án liên quan đến trẻ em từ nguyên nhân bạo lực gia đình; tội phạm phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao liên quan đến người dưới 18 tuổi; hướng dẫn Công an các địa phương có kế hoạch xây dựng hồ sơ chuyên đề “Theo dõi công tác phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi”, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm tại từng địa phương để có giải pháp phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả; phối hợp với các ban, ngành, đơn vị rà soát các trẻ em, người chưa thành niên hoàn cảnh khó khăn nguy cơ bị xâm hại, bạo lực để phân công trách nhiệm giúp đỡ quản lý giáo dục tại gia đình, nhà trường, cộng đồng./.
Tài liệu tham khảo
1. Quốc hội, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Quốc hội, Luật Trẻ em năm 2016.
3. Toà án nhân dân Tối cao, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định về các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
4. Trường Đại học luật TP.HCM (2020), Hệ thống văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em, Nxb Hồng Đức.
Tác giả: Thiếu tá, Ths. Huỳnh Trung Hậu - Khoa Luật
- Trao đổi về phương pháp viết bài đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân (26.02.2019)
- Công tác vận động quần chúng của lực lượng Cảnh sát giao thông công an Thành phố Hồ Chí Minh trong đ (18.02.2019)
- Nâng cao chất lượng Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân đáp ứng nhu cầu hội nhập (18.01.2019)
- Chứng từ điện tử có giá trị như chứng từ giấy (11.01.2019)
- Thesis: “Activities of the People’s Police Force in preventing deliberate infliction of bodily (05.12.2018)
- Dissertation: “Examining scenes in investigating cases of using explosive materials” (29.11.2018)
- Tin bảo vệ luận án của NCS Trần Hữu Tiến (26.11.2018)
- Title of thesis: Investigating the scene of extortion cases by the Criminal Investigation on So (24.11.2018)
- Ngăn ngừa hành vi lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc về quyền con người (01.11.2018)